Tuổi trẻ vua Trần Nhân Tông
Vua Trần Nhân Tông sinh vào ngày 11 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 8 (1258). Khi mới sinh, ĐVSKTT 5 tờ 38a8-b1 đã mô tả như “được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử, vai bên tả có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn”.
Thánh đăng ngữ lục tờ 14b1-7, đối với thời gian trước khi sinh vua Trần Nhân Tông, còn nói tới giấc mộng mà Nguyên Thánh Hoàng thái hậu mơ thấy: “Xưa hoàng thái hậu Nguyên Thánh thường mơ thấy người thần trao cho hai cây gươm bảo: ‘Thượng đế có lệnh, cho ngươi tự chọn’. Thái hậu bất chợt rất vui, bỗng lấy được cây gươm ngắn,do thế mà có mang”.1 Những tình tiết này sau đó Chân Nguyên đã viết lại thành thơ trong Thiền tông bản hạnh: 1
Thánh mẫu là mẹ lòng hòa có nhân,
Giấc hòe thoắt nhập đêm xuân,
Chiêm bao xẩy thấy thần nhân một người.
Cao cả tượng sứ nhà trời,
Trao cho lưỡng kiếm có lời bảo vây.
Hoàng hậu sực thức đêm chầy,
Thấy điềm sự lạ tâu bày Thánh Tông.
Lòng vua thấy vậy cực mừng,
Bàn mộng thốt rằng ấy trời tộ ta
Sau khi có thai, Thánh đăng ngữ lục lại chép tiếp cuộc sống của Hoàng thái hậu Nguyên Thánh vẫn diễn ra bình thường, không có những quan tâm gì đặc biệt đến việc nuôi dưỡng và bảo vệ thai, mà vào thời bấy giờ tại nước ta, đặc biệt trong giới thượng lưu, đã trở thành một tập quán quen thuộc và phổ biến: “Trong những tháng dưỡng thai, bà không lựa chọn các món kỡ thai. Nhà bếp dâng gì liền ăn, mà thai vẫn không bị hư tổn. Thái hậu biết là mình có nơi giúp đỡ”. Tình tiết này Thiền tông bản hạnh không diễn tả lại, chỉ viết:Từ ngày chiêm bao đã qua Hoàng hậu thọ thai càng hòa tốt tươi.
Rồi sau đó khi vua Trần Nhân Tông sinh ra, Thánh đăng ngữ lục, giống như ĐVSKTT đã ghi nhận một hiện tượng là cậu bé Trần Nhân Tông đã có màu vàng lúc mới sinh, và trên vai phải có nốt ruồi đen: “Đến khi vua ra đời, màu da như vàng ròng. Thánh Tông đặt tên là Kim Phật. Bên vai phải vua còn nốt ruồi đen như hạt đậu lớn. Kẻ thức giả bảo: ‘Ngày khác chắc chắn có thể gánh vác việc lớn’ ”. Chi tiết này Thiền tông bản hạnh đã mô tả lại khá dài dòng qua những câu thơ:
Mãn nguyệt no tháng thoát thai
Mình vàng kim sắc tướng ngài lạ thay
Vua cha thốt bảo rằng bay
Hai ta có đức sinh nay Bụt vàng.
Hữu kiên nốt ruồi bên nương
Thuật sĩ xem tướng đoán lường rằng bây:
Thái tử trí cả bằng nay
Gánh việc đại khí làm thầy mười phương.
Khi lớn, vua Trần Nhân Tông được vua cha đặt tên là Khâm và chăm lo giáo dục kỹ càng, để chuẩn bị cho việc kế tục sự nghiệp lãnh đạo quốc gia sau này. Các tư liệu Việt Nam không cho biết rõ. Thánh đăng ngữ lục tờ 15b8 chỉ bằng lòng viết: “Điều Ngự tính vua thông minh, đa năng hiếu học, xem trải mọi sách, thông nội ngoại điển”. Còn Thiền tông bản hạnh thì viết hai câu:
Cha mẹ dưỡng dục yêu thương
Đặt hiệu cho chàng là Điều Ngự Vương
Nhưng Trần Quang Chỉ, khi đề từ cho bức tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ, đã cho ta biết khá rõ những gì mà Trần Nhân Tông đã được nuôi dạy, lúc còn trẻ: “Khi lớn, ngài học thông tam giáo và hiểu sâu Phật điển. Ngay cả thiên văn, lịch số, binh pháp, y thuật, âm luật, không thứ gì là không mau chóng nắm được sâu sắc”. Như thế, vua Trần Nhân Tông đã thừa hưởng một nền giáo dục hết sức rộng rãi, với một tinh thần cởi mở, kết hợp kiến thức khoa học với văn chương, quân sự với âm nhạc. Đây là truyền thống giáo dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam, mà ta đã thấy xuất hiện từ thời Mâu Tử và Khương Tăng Hội.
Đến năm 16 tuổi, tức năm Giáp Tuất (1274), ĐVSKTT 5 tờ 34a4-5 cho biết: “Tháng 12 sắc phong hoàng trưởng tử Khâm làm Hoàng thái tử, lấy con gái trưởng của Hưng Đạo Vương làm phi cho Thái tử”. Về sự kiện này, theo Thánh đăng ngữ lục tờ 16b7 - 18a1 thì vua cha tính chuyện truyền ngôi cho, song vua Trần Nhân Tông từ chối, muốn nhường lại cho em mình là Đức Việp. Sau khi không được phép nhường ngôi Hoàng thái tử cho em, Thánh đăng ngữ lục còn cho ta biết việc vua Trần Nhân Tông lấy vợ và những cảm nghĩ của ông: “Năm vừa 16, được lập làm Hoàng thái tử, Điều Ngự cố từ ba lần, xin cho em thay mình, nhưng đều không được. Đem trưởng nữ của Nguyên Từ quốc mẫu cho làm vợ, tức là Thái hậu Khâm Từ. Duyên cầm sắc tuy hài hòa, nhưng lòng vua thì rất nhạt nhẽo”.
Chi tiết này Thiền tông bản hạnh chỉ ghi lại sơ sài qua mấy câu, mà không đề cập đến việc lấy vợ:
Tuổi mới mười sáu niên phương
Vua cha định liệu cho thăng trị vì
Điều Ngự hai phen tâu quì
Khiến nhường cho em trị vì thay anh.
Thái tử lòng muốn tu hành
Nhìn xem phú quí tâm tình nhưng nhưng
Tuy ở điện bệ Đông cung
Lòng hằng giữ nhớ tôn phong nhà thiền
Vì đối với người vợ mới, vua Trần Nhân Tông “tâm tình nhưng nhưng”, nên Thánh đăng ngữ lục còn đưa thêm chi tiết về việc vua Trần Nhân Tông bỏ nhà đi lên núi Yên Tử: “Một đêm vào giờ Tý, vua bèn vượt thành mà đi, tìm vào núi Yên Tử. Đến chùa Tháp núi Đông Cứu thì trời đã sáng mà mình lại rất mệt, bèn vào nghỉ ở trong tháp. Vị sư chùa thấy diện mạo vua khác thường, bèn đem thức ăn dâng vua”. Thiền tông bản hạnh đã diễn đạt đoạn này như sau:
Đêm ấy thái tử thoát ra du hành
Tìm lên Yên Tử một mình
Đến non Đông Cứu thiên minh sáng ngày
Giả tướng lệ người thế hay
Vào nằm trong tháp một giây đỗ dừng
Tăng tự thấy tướng lạ lùng
Làm bữa cơm thết cúng dường cho ăn.
Tất nhiên, Thái tử bỏ nhà ra đi thì hoàng gia, mà đặc biệt là Hoàng hậu, phải tìm kiếm. Thánh đăng ngữ lục viết về sự việc ấy thế này: “Hoàng hậu đem tâu hết cho Thánh Tông nghe. Vua ra lệnh cho quần thần tung ra bốn phương tìm kiếm. Thái tử bất đắc dĩ tự trở về và lên ngôi. Tuy ở nơi cửu trùng sang trọng mà vẫn tự mình giữ thanh tịnh”.
Thiền tông bản hạnh đã diễn tả lại:
Hoàng hậu lên tấu minh quân
Rao bảo thiên hạ quần thần đông tây
Tìm đòi thái tử chớ chầy
Bắt em thay trị liền tay tức thì
Thuở ấy thái tử lại về
Vua cha nhường vì cho trị vạn dân
Chi tiết này không thấy ĐVSKTT ghi lại. Dẫu sao đi nữa, sau khi trở về hoàng cung, trong khi ở chơi tại ngôi chùa Tư Phúc của hoàng gia, Thánh đăng ngữ lục còn ghi thêm một chi tiết: “Thường ở chùa Tư Phúc trong đại nội, ban ngày Thái tử ngủ, nằm mơ thấy lỗ rốn mình mọc lên một hoa sen vàng, lớn như bánh xe. Trên hoa có đức Phật vàng. Bên cạnh có người chỉ Điều Ngự nói: ‘Biết đức Phật này không? Ấy là đức Biến Chiếu Tôn’. Bèn giật mình thức dậy, đem giấc mơ kể lại cho vua Thánh Tông. Thánh Tông càng thêm lấy làm lạ”. Tình tiết này Thiền tông bản hạnh diễn tả lại:
Tuy ở điện bề đông cung
Lòng hằng giữ nhớ tôn phong nhà thiền
Đêm khuya bóng nguyệt kề hiên
Chiêm bao xảy thấy hoa sen mọc bầy.
Có người chỉ bảo rằng bây
Ngẫm thấy phen này Thái tử có duyên.
Ấy là Phật bảo hoa sen.
Sau giấc mơ này, theo Thánh đăng ngữ lục, vua Trần Nhân Tông đã ăn chay đến nỗi gầy guộc, vua cha phải yêu cầu thay đổi: “Từ đó thường chịu ăn chay, không dùng đồ mặn, mặt rồng gầy guộc. Thánh Tông thấy lạ mới hỏi: Điều Ngự nói hết lý do. Thánh Tông khóc bảo: ‘Cha nay già rồi, trông nhờ một người ở con. Con mà như thế, thì thành nghiệp của tổ tông sẽ thế nào’. Điều Ngự cũng khóc”. Thiền tông bản hạnh viết về sự việc này:
Thái tử từ ấy những nguyền ăn chay
Mặt mũi mình vóc đã gầy
Vua cha xem thấy ngày rày hỏi con.
Thái tử quì lạy tâu van
Thánh Tông nước mắt hòa chan ròng ròng.
Ai hầu nối nghiệp tổ tông
Tuổi cha già cả trong lòng khá thương.
Thái tử nước mắt đượm nương
Phụ tử tình thâm cảm thương thay là.
Dù giấc mơ xảy ra, trước khi lên ngôi hay sau khi được phong làm Hoàng thái tử, sự thật rõ ràng là Thái tử Trần Khâm đã chấp nhận lên ngôi vua vào ngày 22 tháng 10 năm Mậu Dần, Bảo Phù thứ 6 (1278). Vừa lên ngôi, vua Trần Nhân Tông đã đứng trước một tình thế hết sức hiểm nghèo, mà đất nước đang lâm vào. Đó là việc Hốt Tất Liệt ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta trong khi đang thanh toán nốt những cứ điểm cuối cùng của nhà Tống tại nam Trung Quốc, kết thúc với việc thừa tướng Lục Tú Phu cõng vua Tống nhảy xuống biển chết vào mùa xuân năm sau (1279).
Tháng 10, vua Trần Nhân Tông lên ngôi, thì tháng 11 nhuận, sứ bộ của Hốt Tất Liệt là Sài Thung đã đến Ung Châu thông qua con đường Giang Lăng, nhằm vào nước ta mà đi tới. Về sự kiện này, ĐVSKTT 5 tờ 38a3-7 chỉ viết: “Vua Nguyên nghe Thái Tông mất, có ý mưu tính nước ta, sai thượng thư bộ Lễ là Sài Thung (tức Sài Trang Khanh) đến.
Bấy giờ, sứ nước ta Lê Khắc Phục đang trở về gặp quân Nguyên đánh nhà Tống, bèn theo đường Hồ Quảng về nước.
Thung cùng đi theo tới, mượn cớ vua không xin mệnh mà tự lập, dựng lời bảo vua khiến vào chầu. Vua không nghe, sai Trịnh Đình Toản, Đỗ Quốc Kế đến Nguyên. Nhà Nguyên giữ Đình Toản không cho về”.
Các sử liệu Trung Quốc, đặc biệt là Bản kỷ và An Nam truyện của Nguyên sử 10, tờ 5a3-4 và 209 tờ 4a1-b13 ghi rất rõ về hoạt động của phái bộ này tại nước ta cùng những đối phó mà vua Trần Nhân Tông thực hiện. Thứ nhất, tuy được cử đi từ tháng 8 và được Hốt Tất Liệt chỉ đạo sử dụng con đường Giang Lăng, Quảng Tây thay vì con đường Vân Nam, Sài Thung đã tới Ung Châu vào tháng 11 nhuận. Khi nghe tin này, vua Trần Nhân Tông đã gửi thư phản đối, yêu cầu Sài Thung phải trở về con đường Thiện Xiển, Vân Nam mà chúng thường sử dụng trước đó. Đây có thể là bức thư ngoại giao đầu tiên hiện được bảo tồn một phần trong An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 4a4-5: “Nay nghe Quốc công khó nhọc đến tệ quốc, dân biên giới không ai là không kinh hãi, không biết sứ người nước nào mà đến ở đây. Xin đem quân về đường cũ để mà đến”.
Sài Thung đã không đáp ứng yêu cầu, mà còn gửi thư đòi phải đón hắn: “Thượng thư bộ Lễ và các quan vâng lệnh trên cùng bọn Lê Khắc Phục của bản quốc do Giang Lăng đến Ung Châu để vào An Nam. Nếu có quân binh dẫn đường hộ tống thì nên theo ngựa trạm đến đầu biên giới xa đón”.
Cũng theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 4a6 -10, vua Trần Nhân Tông đã sai Ngự sử trung tán kiêm tri thẩm hình viện sự Đỗ Quốc Kế đến trước. Rồi sau đó sai thái úy, tức thượng tướng Trần Quang Khải đem trăm quan đón chúng từ bờ sông Hồng đưa vào sứ quán. Ngày mùng 2 tháng 12 năm Mậu Dần (1278), vua Trần Nhân Tông đã đến sứ quán để thăm bọn này. Ngày mùng 4, vua nhận chiếu và Sài Thung đã đọc lời của Hốt Tất Liệt:
“Nước ngươi nội phụ đã hơn 20 năm. Sáu việc vừa rồi còn chưa thấy theo. Ngươi nếu không chầu thì hãy sửa thành trì của ngươi, chỉnh đốn quân đội ngươi để đợi quân ta (...) Cha ngươi đã nhận lệnh ta làm vua. Ngươi không xin lệnh mà tự lập, nay lại không chầu. Ngày sau triều đình gia tội thì lấy gì mà trốn ?”
Trước những lời xấc xược đó, mà sau này, trong lời hịch động viên chiến sỹ của mình, Trần Hưng Đạo đã mô tả “thấy sứ giả qua lại dọc ngang ngoài đường, khua tấc lưỡi cú vọ mà khinh rẻ triều đình, đem cái thân dê chó mà ngạo mạn tể phụ”, vua Trần Nhân Tông đâu có dễ dàng khuất phục. Và để thử nắn gân, vua đã theo lệ cũ đãi yến Sài Thung ở dưới hành lang. Thung không chịu ngồi vào yến, mà trở về sứ quán. Vua sai Phạm Minh Tự đem thư mời dự yến tại điện Tập Hiền thì hắn mới đến.
Tại yến tiệc này, An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 4a12 -b3 đã ghi lại khá kỹ cuộc nói chuyện đã diễn ra giữa vua ta và Sài Thung. Trước hết, vua Trần Nhân tông có lời phát biểu như thế này: “Tiên quân vừa rời bỏ cuộc đời, tôi vừa nối ngôi, mà thiên sứ đến đem chiếu thư, mở lời dỗ dành, khiến tôi vừa vui lẫn sợ trong lòng. Trộm nghe, ấu chúa nhà Tống nhỏ dại, thiên tử còn thương xót mà phong cho tước công thì chắc tiểu quốc đây cũng được gia ân thương xót. Trước đây đã được tha miễn 6 việc. Còn lễ tự thân vào chầu, thì tôi sinh trưởng ở thâm cung, không tập cưỡi ngựa, không quen thủy thổ, sợ chết dọc đường. Em tôi là Thái úy trở xuống cũng đều như vậy. Khi thiên sứ trở về chầu vua, xin dâng biểu tâu rõ lòng thành, cùng cho biếu của lạ”.
Khi nghe lời này, Thung liền nói ngay: “Chúa Tống chưa tới 10 tuổi, cũng sinh trưởng ở thâm cung. Như thế mà sao vẫn đến được kinh sư. (Ta đây) ngoài việc chiếu chỉ ra, không dám nghe một lệnh nào khác. Vả lại b ốn người ta đây thật đến để mời ngươi, chứ không phải để lấy của ngươi”.
Thế rõ ràng, chưa đầy hai tháng từ khi mới lên ngôi, vua Trần Nhân Tông đã phải tiếp ngay Sài Thung cùng phái bộ của hắn, đem lời đe dọa tiến công nước ta. Trước những hành động và dã tâm đó, vua Trần Nhân Tông vẫn khôn khéo thực hiện một chính sách ngoại giao mềm dẻo nhằm tạo cơ hội cho quân dân Đại Việt có thời gian phát huy và củng cố tiềm lực của mình. Khi Sài Thung trở về, theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 4b3 -6, vua Trần Nhân Tông đã sai Phạm Minh Tự, Trịnh Quốc Toản và Đỗ Quốc Kế đem biểu gửi cho vua Nguyên, từ chối việc vào chầu:
“Cô thần bẩm khí yếu đuối. Vả lại đường xá khó khăn, chỉ luống phơi xương trắng làm cho Bệ hạ phải xót thương mà không ích lợi gì cho triều đình trong muôn một. Cúi mong bệ hạ xót thương tiểu quốc xa xôi, khiến cho thần cùng những quan kẻ quan quả cô độc giữ được tính mạng, để suốt đời phụng sự bệ ha. Đó là điều may lớn cho cô thần và cũng là phước lớn cho sinh linh”.
Tháng 3 năm sau (1279), khi bọn Sài Thung về đến Đại Đô trước và báo cáo việc vua Trần Nhân Tông từ chối vào chầu mà chỉ gửi sứ, thì khu mật viện nhà Nguyên đã đề nghị với Hốt Tất Liệt cho tiến quân đánh nước ta. Hốt Tất Liệt chưa nghe và cho sứ ta vào chầu. Tháng 11, giữ sứ ta là Trịnh Quốc Toản ở lại Đại Đô, rồi sai bọn Sài Thung 4 người đi cùng Đỗ Quốc Kế trở lại nước ta, đưa điều kiện và đe dọa, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 4b9 -12 đã ghi: “Nếu quả không thể đến chầu được thì hãy dồn vàng thay cho thân mình, dùng hai ngọc trai thay cho mắt mình cùng với hiền sĩ, phương kỷ tử đệ hai người và hai loại thợ mỗi thứ 2 người để thay cho thổ dân.
Nếu không thế, thì hãy sửa sang thành trì của ngươi, để đợi sự phán xét”.
Đứng trước những lời đe dọa và nguy cơ chiến tranh ngày càng tiến đến gần, vua Trần Nhân Tông khẩn trương tiến hành một loạt biện pháp, nhằm nâng cao tiềm lực chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao của dân tộc, chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược sắp tới, mà bản thân vua và triều đình thấy không thể nào tránh được.
Đầu tiên, về chính trị, vua thực hiện một chính sách an dân và ổn định xã hội bằng việc “đại xá cho thiên hạ” nhân dịp tết Nguyên đán sau khi vua mới lên ngôi, tức vào Tết năm Kỷ Mão Thiệu Bảo thứ nhất (1279), như ĐVSKTT 5 tờ 38b4-5 đã ghi. Tiếp đến, vua cho giải quyết những oan ức, bất công tồn tại trong quần chúng. ĐVSKTT 5 tờ 39b4-8 kể chuyện, 20 tháng sau khi lên ngôi, dân đã đón xe vua, để khiếu nại về kết qủa một vụ án. Vua “ngay trên đường, sai chánh trưởng nội thư hỏa là Trần Hùng Thao” giải quyết. Cũng trong giai đoạn đó, Trịnh Giác Mật ở đạo Đà Giang làm phản. Vua sai Trần Nhật Duật đi dụ hàng. Trần Nhật Duật đã thành công và “đem Mật cùng vợ con vào ra mắt vua”, mà “không mất một mũi tên”.
Về kinh tế, do khuyến khích và huy động lực lượng nông dân, một năm sau khi lên ngôi, vào tháng 10 thì “được mùa to, lúa ruộng ở hương Trà Kiều thuộc Khoái Lộ một giò hai bông”, như ĐVSKTT 5 tờ 39b3-4 đã ghi. Và để tạo điều kiện cho sự phát triển một nền thương mại quốc dân, ĐVSKTT 5 tờ 39b2 cho biết tháng giêng năm Thiệu Bảo thứ hai (1280) vua Trần Nhân Tông đã “ban thước đo gỗ, đo lụa cùng một kiểu”, nhằm thống nhất hệ thống đo lường trong cả nước cho tiện việc buôn bán. Tháng 2 cùng năm, “xét duyệt sổ đinh và các sắc dịch trong nước”, để nắm dân số, tạo thuận lợi cho công ăn việc làm của dân, đồng thời không gây trở ngại đến thời gian làm nghề, tác động không tốt đến sản xuất và đời sống.
Về ngoại giao, ngoài việc đối phó với nhà Nguyên, chỉ mấy tháng sau khi lên ngôi, vua Trần Nhân Tông còn giải quyết vấn đề Chiêm Thành, nỗ lực xây dựng một quan hệ hữu nghị thân thiết với quốc gia láng giềng nằm ở biên giới phía nam của tổ quốc. Ngay trong tháng giêng năm Thiệu Bảo thứ nhất (1279), bọn Chế Năng và Chế Diệp, khi được vua Chiêm cử cầm đầu phái bộ đến nước ta, đã xin ở lại và làm bề tôi. Vua đã khéo léo từ chối, thuyết phục bọn họ trở về. Không những thế, khi Chiêm Thành bị quân Nguyên xâm lược vào tháng 12 năm Chí Nguyên thứ 16 (1279), vua Trần Nhân Tông đã ra lệnh gửi 2 vạn quân và 500 chiến thuyền chi viện cho Chiêm Thành. Sự kiện này, sử ta không nói tới, nhưng An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 5b3-8 nói rất rõ, và trở thành một trong những nguyên cớ khiến quân Nguyên tiến công xâm lược nước ta.
An Nam truyện viết: “An phủ sứ Quỳnh Châu Trần Trọng Đạt nghe Trịnh Thiên Hựu nói Giao Chỉ thông mưu với Chiêm Thành, sai quân 2 vạn và thuyền 500 chiếc để làm ứng viện”. Vua Trần Nhân Tông phải viết thư trả lời:
“Chiêm Thành là một nội thuộc của tiểu quốc, thì khi đại quân đến đánh, đúng ra đại quốc phải tỏ thương xót, nhưng chưa từng dám nói ra một lời, bởi vì tiểu quốc biết thời trời việc người vậy. Nay, Chiêm Thành lại làm phản nghịch, chấp mê không chịu quay lại thì đúng là đứa không biết trời biết người. Người biết trời biết người mà trở lại cùng mưu với đứa không biết trời biết người thì dù là trẻ con bé tí cũng biết là việc không thể xảy ra. Huống nữa là tiểu quốc ư ? Xin quí hành tỉnh biết cho”.
Dù có lời biện bạch này, nhưng rõ ràng việc vua Nhân Tông gửi viện binh cho Chiêm Thành để chống lại quân Nguyên chắc chắn đã xảy ra. Đây có thể là lần thứ 2 dân tộc ta gửi viện binh ra nước ngoài sau gần 14 thế kỷ khi vua Hùng đã gửi viện binh giúp cho Đông Việt và Mân Việt chống lại quân Hán của Vũ Đế. Chiêm Thành có một vị trí sống chết đối với an ninh của Đại Việt. Khi cử bọn Toa Đô xuống xâm lược Chiêm Thành, Hốt Tất Liệt không chỉ nghĩ tới chiếm Chiêm Thành như một đầu cầu để tiến xuống các nước Đông Nam Á khác, như một số người đã đề xuất, mà trước mắt là dùng Chiêm Thành như một bàn đạp để tiến công Đại Việt từ phía nam. Thực tế, sự việc diễn ra sau đó đã chứng minh điều này.
Quả vậy, rút kinh nghiệm của cuộc chiến tranh năm1258, Hốt Tất Liệt chú ý tới vị trí của Chiêm Thành trong chiến lược bao vây và tiêu diệt nước ta. Cho nên, theo Chiêm Thành truyện của Nguyên sử 210 tờ 4a3-6a7 ngay trong tháng 12 năm Chí Nguyên thứ 16 (1279), Hốt Tất Liệt đã cử Toa Đô cùng binh bộ thị lang Giáo Hóa Đích, tổng quản Mạnh Khánh Nguyên và vạn hộ Tôn Thắng Phu đến Chiêm Thành, dụ vua Chiêm vào chầu. Năm sau lại gửi tiếp hai phái đoàn nữa, một vào tháng 6 và một vào tháng 11 năm Chí Nguyên thứ 17 (1280). Qua năm 1281, Hốt Tất Liệt chính thức thành lập cơ quan đầu não tiến hành xâm lược nước Chiêm, biết dưới tên Chiêm Thành hành trung thư tỉnh, do chính Toa Đô đứng đầu. Đến tháng 11 năm Chí Nguyên thứ 19 (1282) Toa Đô cầm quân từ Quảng Châu tiến xuống Chiêm Thành. Đó là cơ bản viết theo Chiêm Thành truyện của Nguyên sử 210 tờ 4a3-13.
Do thế, Chiêm Thành có một vị thế hết sức xung yếu trong chiến lược phòng thủ quốc gia Đại Việt. Và vua Trần Nhân Tông kiên quyết bằng mọi giá phải giữ cho được một biên giới phía nam hòa bình và ổn định, không để cho kẻ địch có cơ hội khoét sâu, gây chia rẽ tình đoàn kết Việt - Chiêm trong việc đối phó với kẻ thù chung. Thực tế, trước khi gửi 2 vạn quân và 500 chiến thuyền chi viện, có thể vào cuối năm 1282, tức năm Toa Đô xuất quân từ Quảng Châu, thì đầu năm 1282 này, tức tháng 2 năm Nhâm Ngọ Thiệu Bảo thứ 4, ĐVSKTT 5 tờ 41b1-2 đã ghi việc Chiêm Thành gửi một phái bộ hơn 100 người do Bố Bà Ma dẫn đầu đến Đại Việt dâng voi trắng. Phải nói đây là một phái bộ ngoại giao hùng hậu và chắc chắn vấn đề chi viện đã được đặt ra. Gần 30 năm sau, khi vua Chiêm vui vẻ dâng hai châu Ô, Lý để sáp nhập vào bản đồ Đại Việt, cội nguồn của việc này đã bắt đầu từ đây.
Về quân sự, ngay vào năm Chí Nguyên thứ 16 (1279), khi quân Nguyên đã tiêu diệt nhà Tống, chiếm cứ toàn bộ Trung Quốc, thì tháng 7 năm ấy, Hốt Tất Liệt tức khắc ra lệnh đóng chiến thuyền để đánh Đại Việt, như Bản kỷ của Nguyên sử 10 tờ 11b14 đã ghi. Tháng 11 cùng năm, tuy ra lệnh giữ phái bộ Trịnh Đình Toản của ta ở lại Đại Đô và sai lễ bộ thượng thư Sài Thung và binh bộ thượng thư Lương Tăng đi cùng với Đỗ Quốc Kế sang Thăng Long, đe dọa vua Trần Nhân Tông: “Hãy sửa sang thành trì mà đợi xét xử”. Tháng 10 năm sau (1280) Lương Tăng và Sài Thung lại được sai đến nước ta một lần nữa. Cho nên, tháng giêng năm Thiệu Bảo thứ 3 (1281) vua Nhân Tông đã sai chú họ mình là Trần Di Ái cùng Lê Tuân và Lê Mục đi sứ sang Nguyên.
Chớp lấy thời cơ này, Hốt Tất Liệt thực hiện dã tâm xâm lược của hắn bằng cách thiết lập một chính phủ bù nhìn lưu vong với Trần Di Ái đứng đầu với tư cách là An Nam quốc vương, Lê Mục làm hàn lâm học sĩ và Lê Tuân làm thượng thư, như Bản kỷ của Nguyên sử tờ 9a4-5 đã ghi. Theo tờ chiếu năm Chí Nguyên 18 (1281) chép trong An Nam chí lược 2 tờ 35, y nại lý do “cho sứ sang vời thì ngươi (tức vua Trần Nhân Tông, LMT) kiếm cớ không đi, nay lại cố ý trái mệnh, chỉ sai chú là Di Ái vào chầu (...). Ngươi đã cáo bệnh không vào chầu thì nay cho ngươi được nghỉ mà thuốc thang điều dưỡng, ta đã lập chú ngươi là Di Ái thay ngươi làm vua nước An Nam”.
Sau khi thiết lập xong chính quyền bù nhìn Trần Di Ái, cùng tháng đó Hốt Tất Liệt cho thành lập An Nam tuyên uý ty, đặt Bột Nhan Thiết Mộc Nhi (Buyan Tamur) làm An Nam tuyên úy sứ đô nguyên soái cùng Sài Thung và Hốt Kha Nhi (Qugar) làm phó, như Bản kỷ và An Nam truyện của Nguyên sử 11 tờ 9a8-9 và 209 tờ 4b12-5a1 đãý chép. Rồi y cho một ngàn quân, ra lệnh Sài Thung đưa Di Ái và đồng bọn về nước. Theo An Nam chí lược 3 tờ 44 thì “về đến địa giới Vĩnh Bình, người nước không nhận. Di Ái sợ, đang đêm trốn về trước. Thế tử sai bồi thần đón Sài công vào nước tuyên chỉ dụ”. ĐVSKTT 5 tờ 40b8-41a2, sau khi viết “Sài Thung đem 5000 quân hộ tống về nước”, đã viết tiếp:
“Thung kiêu ngạo vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân Thiên trường chặn lại. Thung lấy roi ngựa đánh bị thương vào đầu. Khi đến viện Tập Hiền thấy bày màn trướng, Thung mới xuống ngựa”. Và không cho ta biết Trần Di Ái đi đâu. Chỉ đến tháng 4 năm sau (1282) ta mới thấy ĐVSKTT 5 tờ 41b2 ghi: “Bọn Trần Di Ái đi sứ về nước”. Hai tháng sau, tức tháng 6, sách viết tiếp: “Trị tội bọn phản thủ Trần Di Ái. Ái phải đày làm binh khao giáp ở Thiên trường và Tuân làm tổng binh”.
Thế là, ý đồ thành lập chính phủ bù nhìn Trần Di Ái ở nước ta hoàn toàn thất bại do việc vua Trần Nhân Tông đã cương quyết đánh tan đội quân hộ tống do Sài Thung cầm đầu. Mười năm sau, trong tờ chiếu năm 1291, Hốt Tất Liệt còn nhớ việc này và đã trách vua ta là “giết chú đuổi sứ”. Và trong lá thư gửi cho Hốt Tất Liệt, vua Trần Nhân Tông còn bác bỏ: “Trước đây, quốc thúc Di Ái rõ ràng là trốn đi ở cõi ngoài, mà bị vu là đã giết càn”. Do thất bại này, Sài Thung rất hậm hực. Cho nên, như ĐVSKTT 5 tờ 41a2-9 đã ghi lại, khi vua Trần Nhân Tông sai thái sư Trần Quang Khải sang sứ quán tiếp hắn, hắn đã nằm khểnh không chịu ra tiếp. Trần Quang Khải đi thẳng vào trong phòng, hắn cũng không dậy chào hỏi. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nghe thế, xin đến sứ quán. Thấy Trần Quốc Tuấn tới, hắn đứng dậy chào hỏi mời ngồi. Mọi người lấy làm lạ. Nhưng đấy là do vì Trần Hưng Đạo cạo đầu và ăn mặc như một vị hoà thượng phương Bắc.
Từ thất bại ấy, việc tiến quân xâm lược nước ta, do đó, chỉ là vấn đề thời gian. Và trên thực tế, triều đình nhà Nguyên đã ráo riết chuẩn bị phương lược, nhân sự và khí tài, để tiến đánh Đại Việt. Tất cả hoạt động này của quân Nguyên, triều đình Đại Việt, dưới sự lãnh đạo của vua Trần Nhân Tông, đã bám sát chặt chẽ. Tháng 8, ĐVSKTT 5 tờ 41b4-5 ghi sự kiện các nhà hữu trách Việt Nam đã được vị tướng biên phòng châu Lạng là Lương Uất báo cáo về việc “Hữu thừa tướng nước Nguyên là Toa Đô đem 50 vạn quân tinh nhuệ, nói phao là mượn đường đi đánh Chiêm Thành, nhưng thực ra là để xâm lấn nước ta”.
Hai tháng sau, vua Trần Nhân Tông cho tổ chức hội nghị quân sự Bình Than để bàn kế hoạch chống quân xâm lược. Bên lề hội nghị quân sự này, có hai sự việc đáng chú ý, mà ĐVSKTT 5 tờ 41b8-43a6 đã ghi lại. Thứ nhất,ử việc phục chức phó tướng quân cho Trần Khánh Dư. Và thứ hai là việc Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản bóp nát quả cam vì không được dự hội nghị. Điều này chứng tỏ ngay trước khi quân xâm lược tiến vào biên giới nước ta, vua Trần Nhân Tông đã phát động phong trào cương quyết diệt giặc trong giới chỉ huy quân sự. Cùng tháng 10 năm đó, vua đã phong thái uý Trần Quang Khải làm thượng tướng thái sư.
Tháng 7 mùa thu năm sau, vua gửi phái bộ Hoàng Tư Lịnh và Nguyễn Chương đi sứ qua nhà Nguyên. Phái bộ trở về, báo cáo đã gặp thái tử A Thai và bình chương A Lạt đương họp 50 vạn binh của các xứ Hồ Quảng, có ý định xâm lược nước ta. Khi nghe tin này, theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 5a1-b3, vua Trần Nhân Tông đã gửi thư cho A Lý Hải Nha đòi trả lại các sứ đã bị giữ. A Lý Hải Nha đã được vua Nguyên cho phép trực tiếp viết thư trả lời. Từ Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh ở Ngạc Châu, A Lý Hải Nha sai tên đạt lỗ hoa xích của châu này là Triệu Chử cầm thư đến nước ta. Tháng 11 năm đó Triệu Chử tới. Vua Nhân Tông đã sai trung lượng đại phu Đinh Khắc Thiệu, trung đại phu Nguyễn Đạo Học, v.vỢ đem phương vật theo Triệu Chử sang Nguyên gặp Hốt Tất Liệt. Đồng thời, vua tiếp tục cuộc đấu tranh ngoại giao bằng cách sai trung phụng đại phu Phạm Chí Thanh cùng triều thỉnh lang Đỗ Bào Trực đem thư đến gặp A Lý Hải Nha trả lời về việc tại sao không thể giúp quân và giúp lương trong việc đánh Chiêm Thành cũng như việc mình không thể vào chầu vua Nguyên.
Trong khi cho phép A Lý Hải Nha cử Triệu Chử vào tháng 7 thì tháng 10 năm đó, Hốt Tất Liệt sai Đào Bỉnh Trực đem chính thư của hắn qua cho vua Trần Nhân Tông. Lá thư tuy không còn, nhưng nội dung chắc chắn là những lời đe dọa. Để đối phó, trong tháng ấy, theo ĐVSKTT 5 tờ 43b6-8, vua Trần Nhân Tông điều động các vương hầu đem toàn bộ quân đội thủy bộ tập trận, phong cho Trần Hưng Đạo làm Quốc công tiết chế thống lĩnh thiên hạ chư quân sự và giao quân cho những tướng tài, chuẩn bị đối phó với cuộc xâm lược sắp tới.
Tháng 5 năm Chí Nguyên thứ 21 (1284), ngày Canh Ngọ, Hốt Tất Liệt, khi nghe “Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh đem quân tiến chiếm vùng đất Ô Mã gần An Nam và xin thêm quân, bèn sai đạt lỗ hoa xích của Ngạc Châu là bọn Triệu Chử đem thư vua đến bảo An Nam”, như Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 3a5-6 đã ghi. Để đáp lại, ngày Giáp Thìn cuối tháng 5 nhuận vua Trần Nhân Tông cử phái bộ Trần Khiêm Phủ đem cống chén ngọc, bình vàng, chuỗi châu, lĩnh vàng, vượn trắng, chim cưu xanh và vải vóc. Theo An Nam chí lược 14 tờ 139 thì phái bộ này qua Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh để xin hoãn binh.
ĐVSKTT 5 tờ 44a4-5 cũng chép vậy, nhưng lại ghi vào tháng 11. Đây chắc là chép sai, vì sau đó lại chép tiếp:
“Tháng 12 Trần Phủ từ nước Nguyên về nói vua Nguyên sai thái tử là Trấn Nam Vương Thoát Hoan, Bình chương A Lạt và bọn A Lý Hải Nha đem quân, thác cớ mượn đường đi đánh Chiêm Thành, chia đường xâm lấ n”. Trong vòng hai tháng, Trần Khiêm Phủ không đủ thời gian để đi về. Hơn nữa, tiếp theo Trần Khiêm Phủ còn có phái bộ Đoàn Án và Lê Quý. Rồi đến tháng 7 còn có phái bộ Nguyễn Đạo Học như Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 4a8-9 đã ghi. Một mặt trận ngoại giao được dàn ra, để vận động và tranh thủ lấy thời cơ, nhằm củng cố và phát triển lực lượng vật chất cũng như tinh thần với mục đích nâng cao sức chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của quân và dân Đại Việt.
Quả thật, tháng 8 năm đó (1284), sau khi được phong Quốc công tiết chế, Trần Hưng Đạo đề nghị tập hợp toàn bộ quân đội ở Đông bộ đầu tại thủ đô Thăng Long, để làm một cuộc duyệt binh lớn. Sau đó, quân đội được bố trí đến đóng các nơi xung yếu như Vĩnh Bình, Động Bàng, Nội Bàng, Vạn Kiếp, Bình Than, Vân Đồn để đối phó với cánh quân Đông - Bắc của địch. Chỉ huy mặt trận Đông Bắc này là Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo. Còn để đối phó với cánh quân Vân Nam ở phía Tây Bắc thì giao cho Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chỉ huy. Còn về phía nam kinh thành, ta xây dựng một số cứ điểm phòng ngự như Đà Mạc, A Lỗ và Đại Hoàng, giao cho các tướng như Bảo Nghĩa Hầu Trần Bình Trọng điều khiển. Cuộc chiến tranh Mông - Việt sắp bắt đầu.
Trong khi tiến hành khẩn trương các hoạt động quân sự, thì công tác vận động toàn dân tham gia kháng chiến đã được thực hiện song song. Tháng 12, Thái Thượng hoàng Trần Thánh Tông triệu tập các bô lão trong cả nước về đãi tiệc tại thềm điện Diên Hồng, hỏi kế đánh giặc. Để trả lời câu hỏi của vua về việc có nên đánh hay không, các vị bô lão đã “muôn người như cùng một lời”, đáp lại “nên đánh”. Nhà sử học Ngô Sỹ Liên bình luận về hành động này, đã nói: “Thánh Tông muốn làm thế để xem sự ái hộ thành thật của hạ dân và muốn cho họ nghe dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên”. Đúng thế, hội nghị Diên Hồng là một cuộc vận động tư tưởng lớn, nhằm phổ biến rộng rãi chủ trương nhất định kháng chiến của vua Trần Nhân Tông và triều đình cùng quân đội tới toàn dân.
Như vậy, quân dân Đại Việt, dưới sự lãnh đạo của vua Trần Nhân Tông, đã chuẩn bị mọi mặt tinh thần và vật chất, để chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, chống lại một cuộc chiến tranh do kẻ thù áp đặt, và cương quyết chiến đấu thắng lợi khi cuộc chiến tranh xảy ra.
11 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 8 (1258). Khi mới sinh, ĐVSKTT 5 tờ 38a8-b1 đã mô tả như “được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử, vai bên tả có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn”.
Thánh đăng ngữ lục tờ 14b1-7, đối với thời gian trước khi sinh vua Trần Nhân Tông, còn nói tới giấc mộng mà Nguyên Thánh Hoàng thái hậu mơ thấy: “Xưa hoàng thái hậu Nguyên Thánh thường mơ thấy người thần trao cho hai cây gươm bảo: ‘Thượng đế có lệnh, cho ngươi tự chọn’. Thái hậu bất chợt rất vui, bỗng lấy được cây gươm ngắn,do thế mà có mang”.1 Những tình tiết này sau đó Chân Nguyên đã viết lại thành thơ trong Thiền tông bản hạnh: 1
Thánh mẫu là mẹ lòng hòa có nhân,
Giấc hòe thoắt nhập đêm xuân,
Chiêm bao xẩy thấy thần nhân một người.
Cao cả tượng sứ nhà trời,
Trao cho lưỡng kiếm có lời bảo vây.
Hoàng hậu sực thức đêm chầy,
Thấy điềm sự lạ tâu bày Thánh Tông.
Lòng vua thấy vậy cực mừng,
Bàn mộng thốt rằng ấy trời tộ ta
Sau khi có thai, Thánh đăng ngữ lục lại chép tiếp cuộc sống của Hoàng thái hậu Nguyên Thánh vẫn diễn ra bình thường, không có những quan tâm gì đặc biệt đến việc nuôi dưỡng và bảo vệ thai, mà vào thời bấy giờ tại nước ta, đặc biệt trong giới thượng lưu, đã trở thành một tập quán quen thuộc và phổ biến: “Trong những tháng dưỡng thai, bà không lựa chọn các món kỡ thai. Nhà bếp dâng gì liền ăn, mà thai vẫn không bị hư tổn. Thái hậu biết là mình có nơi giúp đỡ”. Tình tiết này Thiền tông bản hạnh không diễn tả lại, chỉ viết:Từ ngày chiêm bao đã qua Hoàng hậu thọ thai càng hòa tốt tươi.
Rồi sau đó khi vua Trần Nhân Tông sinh ra, Thánh đăng ngữ lục, giống như ĐVSKTT đã ghi nhận một hiện tượng là cậu bé Trần Nhân Tông đã có màu vàng lúc mới sinh, và trên vai phải có nốt ruồi đen: “Đến khi vua ra đời, màu da như vàng ròng. Thánh Tông đặt tên là Kim Phật. Bên vai phải vua còn nốt ruồi đen như hạt đậu lớn. Kẻ thức giả bảo: ‘Ngày khác chắc chắn có thể gánh vác việc lớn’ ”. Chi tiết này Thiền tông bản hạnh đã mô tả lại khá dài dòng qua những câu thơ:
Mãn nguyệt no tháng thoát thai
Mình vàng kim sắc tướng ngài lạ thay
Vua cha thốt bảo rằng bay
Hai ta có đức sinh nay Bụt vàng.
Hữu kiên nốt ruồi bên nương
Thuật sĩ xem tướng đoán lường rằng bây:
Thái tử trí cả bằng nay
Gánh việc đại khí làm thầy mười phương.
Khi lớn, vua Trần Nhân Tông được vua cha đặt tên là Khâm và chăm lo giáo dục kỹ càng, để chuẩn bị cho việc kế tục sự nghiệp lãnh đạo quốc gia sau này. Các tư liệu Việt Nam không cho biết rõ. Thánh đăng ngữ lục tờ 15b8 chỉ bằng lòng viết: “Điều Ngự tính vua thông minh, đa năng hiếu học, xem trải mọi sách, thông nội ngoại điển”. Còn Thiền tông bản hạnh thì viết hai câu:
Cha mẹ dưỡng dục yêu thương
Đặt hiệu cho chàng là Điều Ngự Vương
Nhưng Trần Quang Chỉ, khi đề từ cho bức tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ, đã cho ta biết khá rõ những gì mà Trần Nhân Tông đã được nuôi dạy, lúc còn trẻ: “Khi lớn, ngài học thông tam giáo và hiểu sâu Phật điển. Ngay cả thiên văn, lịch số, binh pháp, y thuật, âm luật, không thứ gì là không mau chóng nắm được sâu sắc”. Như thế, vua Trần Nhân Tông đã thừa hưởng một nền giáo dục hết sức rộng rãi, với một tinh thần cởi mở, kết hợp kiến thức khoa học với văn chương, quân sự với âm nhạc. Đây là truyền thống giáo dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam, mà ta đã thấy xuất hiện từ thời Mâu Tử và Khương Tăng Hội.
Đến năm 16 tuổi, tức năm Giáp Tuất (1274), ĐVSKTT 5 tờ 34a4-5 cho biết: “Tháng 12 sắc phong hoàng trưởng tử Khâm làm Hoàng thái tử, lấy con gái trưởng của Hưng Đạo Vương làm phi cho Thái tử”. Về sự kiện này, theo Thánh đăng ngữ lục tờ 16b7 - 18a1 thì vua cha tính chuyện truyền ngôi cho, song vua Trần Nhân Tông từ chối, muốn nhường lại cho em mình là Đức Việp. Sau khi không được phép nhường ngôi Hoàng thái tử cho em, Thánh đăng ngữ lục còn cho ta biết việc vua Trần Nhân Tông lấy vợ và những cảm nghĩ của ông: “Năm vừa 16, được lập làm Hoàng thái tử, Điều Ngự cố từ ba lần, xin cho em thay mình, nhưng đều không được. Đem trưởng nữ của Nguyên Từ quốc mẫu cho làm vợ, tức là Thái hậu Khâm Từ. Duyên cầm sắc tuy hài hòa, nhưng lòng vua thì rất nhạt nhẽo”.
Chi tiết này Thiền tông bản hạnh chỉ ghi lại sơ sài qua mấy câu, mà không đề cập đến việc lấy vợ:
Tuổi mới mười sáu niên phương
Vua cha định liệu cho thăng trị vì
Điều Ngự hai phen tâu quì
Khiến nhường cho em trị vì thay anh.
Thái tử lòng muốn tu hành
Nhìn xem phú quí tâm tình nhưng nhưng
Tuy ở điện bệ Đông cung
Lòng hằng giữ nhớ tôn phong nhà thiền
Vì đối với người vợ mới, vua Trần Nhân Tông “tâm tình nhưng nhưng”, nên Thánh đăng ngữ lục còn đưa thêm chi tiết về việc vua Trần Nhân Tông bỏ nhà đi lên núi Yên Tử: “Một đêm vào giờ Tý, vua bèn vượt thành mà đi, tìm vào núi Yên Tử. Đến chùa Tháp núi Đông Cứu thì trời đã sáng mà mình lại rất mệt, bèn vào nghỉ ở trong tháp. Vị sư chùa thấy diện mạo vua khác thường, bèn đem thức ăn dâng vua”. Thiền tông bản hạnh đã diễn đạt đoạn này như sau:
Đêm ấy thái tử thoát ra du hành
Tìm lên Yên Tử một mình
Đến non Đông Cứu thiên minh sáng ngày
Giả tướng lệ người thế hay
Vào nằm trong tháp một giây đỗ dừng
Tăng tự thấy tướng lạ lùng
Làm bữa cơm thết cúng dường cho ăn.
Tất nhiên, Thái tử bỏ nhà