Tết nguyên tiêu (rằm tháng giêng)
Tết Nguyên tiêu có nghĩa là đêm rằm đầu tiên của năm mới (Nguyên là thứ nhất, Tiêu là đêm.) Nguyên tiêu là đêm rằm đầu tiên của một năm (ngày rằm tháng giêng âm lịch). Tết Nguyên Tiêu còn gọi là Tết Thượng nguyên bởi vì còn có Tết Trung Nguyên ( rằm tháng bảy) và Tết Hạ Nguyên ( Rằm tháng mười )
Phong tục nầy bắt nguồn từ thời Tây Hán ở Trung Quốc, người ta còn tiến hành nghi thức rước đèn lồng rất đẹp mắt và long trọng. Chính vì thế, tết Nguyên Tiêu còn gọi là lễ hội lồng đèn. Ngày nay các thành phố có người Hoa sinh sống đều có tổ chức tết Nguyên tiêu một cách long trọng, nhất là tại phố cổ Hội An, tỉnh Quảng nam. Nơi đó có Hội quán Phước Kiến ( còn gọi là Chùa Phúc kiến ) nay là đường Trần phú, Phường Minh an thành phố Hội An.
“Hội quán Phước kiến nơi được xem là di tích và thờ nhiều vị thần nhất như: Thánh mẫu, người che chỡ, đỡ nạn cho ghe thuyền – tàu bè trên biển vượt qua giông bão; Bà chúa sinh thai, thần tài.... được mọi người dân kể cả doanh nghiệp sùng kính - để cúng nhương sao và cầu lộc, cầu phúc cho gia đình."
Trở lại vấn đề hội nhập văn hóa của người Việt. Vì ảnh hưởng tam giáo ( Nho, Lão Phật ) Cho nên người việt cũng có Lễ Thượng Nguyên, Trong 3 lễ, thượng nguyên, Trung Nguyên, và Hạ nguyên đó trong dân gian có câu thành ngữ:
Rằm tháng giêng ai siêng thì quải,
Rằm tháng bảy kẻ quải, người không.
Rằm tháng mười, mười người mười quải.
“Quải” là từ thuần Nôm, tiếng đệm sau chữ “cúng” có nghĩa là “cúng tế”. Nhưng nếu đứng trước như từ “ quải đơm, quải cơm” chỉ về sự “kỵ, giỗ” Chú ý chữ QUẢI viết I ngắn chứ không viết Y dài. Viết chữ quảy có Y dài thì đồng âm nhưng khác nghĩa “ Quảy” có nghĩa là lấy vai chịu một đầu gánh, ý nghĩa tương tự như mang vác trên vai. Người dân gian Việt Nam không muốn lệ thuộc vào văn hóa của nước ngoài, mà muốn có một bản sắc văn hóa riêng. Câu thành ngữ trên đã minh chứng về sự không lệ thuộc đó, không khuyến khích, mà ai siêng năng, có điều kiện kinh tế thì quải, còn không thì thôi, không ép buộc. Rằm tháng bảy cũng vậy. Riêng Hạ nguyên, rằm tháng mười vì là ngày đầu mùa gặt. Người Việt thu hoạch vụ lúa vào tháng mười, thường từ mồng 10 phải xong trước ngày 23, theo lệ thường của thời tiết, vào khoảng thời gian nầy miền Bắc hay miền Trung thường có bão lụt:
Ông tha mà bà chẳng tha,
Đánh nhau một trận hăm ba tháng mười.
Ngày nay Rằm tháng giêng người Việt theo Phật giáo hay thờ cúng ông bà cũng đi lễ Phật vào rằm tháng giêng và trở thành một tập tục chung cho đông đảo quần chúng. Nên có câu thành ngữ: “Lễ Phật quanh năm, không bằng rằm tháng giêng”. Đúng ra ngày rằm tháng giêng theo Phật giáo là ngày vía Đức Phật A Di Đà. Đa số các Chùa đều thờ Phật Thích ca, đấng giáo chủ sanh tại Ấn độ cách đây hơn 2500 năm. Chỉ những Chùa nào theo Tịnh Độ Tông thì mới thờ Phật A Di Đà, là giáo chủ cõi Thiên đường, tên riêng gọi là Tây phương Cực lạc. Pháp môn niệm Phật A Di Đà, là 1 trong 84,000 pháp môn của Đạo Phật, pháp tu đơn giản nhất, và nhanh chóng để về cõi Tây phương. Cho nên “lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng giêng” là ý nghĩa về cầu sanh Tịnh độ.
Ngày nay các Chùa còn lạm dụng nhiều hình thức khác nhau, không còn đúng ý nghĩa ngày Lễ vía để tưởng niệm về 48 lời thệ nguyện rộng lớn của Đức Phật A Di Đà là giáo chủ cõi Tịnh Độ, cõi nước hy vọng của đời sau nữa, nà biến ngày lễ nầy thành ngày lễ Cầu an cho tín hữu và cũng có rất nhiều Chùa có Dương sao Giải hạn nữa. Như vậy là người lãnh đạo tôn giáo đã đi sai ý nghĩa và chân lý của Đạo. Họ đã thế tục hóa chân lý tánh Không của Phật giáo
Như vậy Tết Nguyên tiêu ở Việt nam chỉ còn những nơi nào có người Hoa sinh sống, có lễ hội, tuy lễ hội người Hoa ở Việt nam cũng khác với lễ hội ngay tại Trung hoa xin trích bài của Tương Chân để quý vị tham khảo thêm:
“Rằm tháng giêng, người nông dân Trung quốc thường chống một cây sào cao to trước cửa nhà mình, trên treo một lồng đèn màu đỏ rất to. Đó là biểu thị cát tinh cao chiếu (nghĩa là ngôi sao tốt lành soi sáng trên cao). Nếu treo ba lồng đèn thì là tam tinh nhập hộ (sao tốt lành vào nhà). Theo đó, ở những nơi công cộng nếu trên dưới treo vô số lồng đèn thì người ta gọi là mở hội sao, còn gọi là kim ngọc mãn đường (tức là vàng ngọc đầy nhà), hàm nghĩa giàu sang phú quí, tài lộc dồi dào. Và mọi nhà thường chúc nhau: kim ngọc mãn đường và vận tinh vô hạn (vận sao may mắn vô hạn).
Lồng đèn có thể chia làm bốn loại: loại ngồi (tọa đăng), treo (quá đăng), nước (thủy đăng) và đề đăng (đèn xách tay). Đèn ngồi thì đặt dưới nước hoặc đặt ngồi trên một cái giá, đó là loại lồng đèn có kích cỡ lớn. Đèn treo thì treo theo hành lang, trước cửa nhà hay dưới hoặc giữa tàn cây; đó là loại lồng đèn được làm rất tinh xảo, có chiếc làm bằng tơ lụa hay pha lê với tranh vẽ trên mặt bằng những hình tròn bằng tơ pha lê.
Khi lên đèn, đèn phát tia sáng khúc xạ, tạo ra chùm sáng từ chùm lồng đèn biến thành một chuỗi ánh sáng dài, cho cảm giác hoa lệ, cao quí và huyền bí. Có loại gọi là lồng đèn kim thích với những lỗ nhỏ tạo hoa văn bằng những đầu kim to chích vào. Khi lên đèn, ánh sáng lọt qua những lỗ nhỏ trông lung linh. Thủy đăng thì làm bằng những chất liệu chống nước, làm nổi bật độ sáng và dáng vẻ thẩm mỹ của đèn khi đèn đặt dưới nước. Đèn xách tay thường là đèn cho trẻ em xách trên tay, xinh xắn như những ngôi sao lấm tấm trên nền trời.
Tết Nguyên tiêu còn có tập tục ăn trôi nước, người TQ gọi là thang viên - viên tròn trong nước, xuất phát từ ý nghĩa sum họp và sự tốt lành sinh lợi, nên Nguyên tiêu còn gọi là thang viên. Dấu ấn tuổi thơ trong nhiều gia đình TQ còn ghi nhận: khi người lớn làm xong phần nhân và lắc những viên trôi nước thì trẻ con chơi nghịch, lấy bột bôi trét lên mặt nhau. Và khi ăn xong trôi nước thì chúng được phép xách lồng đèn lên phố dạo chơi.”